Ngày đăng:
25/12/2025 08:51
Trong bối cảnh kinh tế toàn cầu biến động phức tạp, tín dụng tiếp tục giữ vai trò là kênh dẫn vốn chủ lực của nền kinh tế Việt Nam. Tuy nhiên, những áp lực ngày càng lớn về thanh khoản, hiệu quả phân bổ vốn và mức độ phụ thuộc cao vào hệ thống ngân hàng đang đặt ra yêu cầu cấp thiết: tăng trưởng tín dụng không thể chỉ chạy theo quy mô, mà phải gắn chặt với ổn định vĩ mô và nâng cao chất lượng tăng trưởng. Đây là nội dung được các chuyên gia kinh tế tập trung phân tích tại Diễn đàn “Thị trường tín dụng và những vấn đề kinh tế vĩ mô” do Viện Chiến lược Thương hiệu và Cạnh tranh tổ chức ngày 24/12/2025.
Quang cảnh Diễn đàn
“Thị trường tín dụng và những vấn đề kinh tế vĩ mô”.
Nền kinh tế vẫn phụ thuộc lớn vào tín dụng ngân hàng
Phát biểu tại Diễn đàn, TS Võ Trí Thành, Viện trưởng Viện Chiến lược Thương hiệu và Cạnh tranh nhấn mạnh, Việt Nam đang hướng tới mục tiêu tăng trưởng cao trong giai đoạn tới, song tăng trưởng cần đi kèm tính bền vững, bao trùm và hài hòa với môi trường, xã hội. Muốn vậy, ổn định kinh tế vĩ mô phải được đặt ở vị trí trung tâm, không chỉ dừng ở kiểm soát lạm phát mà còn bao gồm sự lành mạnh của hệ thống tài chính -ngân hàng, cán cân đối ngoại và nền tảng kinh tế tổng thể.
Tăng
trưởng tín dụng không thể chỉ chạy theo quy mô mà phải gắn chặt với ổn định vĩ
mô và nâng cao chất lượng tăng trưởng.
Trong bức tranh đó, tín dụng trở thành yếu tố then chốt, vừa là động lực thúc đẩy tăng trưởng, vừa tiềm ẩn rủi ro nếu phát triển thiếu kiểm soát. Đối với các nền kinh tế đang phát triển như Việt Nam, nơi hệ thống tài chính vẫn dựa chủ yếu vào ngân hàng, vai trò của tín dụng càng trở nên nổi bật.
Theo TS Cấn Văn Lực, Chuyên gia Kinh tế trưởng BIDV, trong giai đoạn 2026-2030, nếu tăng trưởng kinh tế đạt khoảng 10% thì tổng vốn đầu tư toàn xã hội cần huy động tương đương 39% GDP, tức khoảng 260 tỷ USD. Tuy nhiên, hiện nay hơn 50% nguồn vốn của nền kinh tế vẫn đến từ hệ thống ngân hàng, trong khi các kênh khác như thị trường chứng khoán, trái phiếu doanh nghiệp còn phát triển hạn chế. Điều này khiến tỷ lệ đòn bẩy tài chính của nền kinh tế ở mức cao.
Theo ước tính, đến cuối năm nay, tỷ lệ tín dụng/GDP của Việt Nam có thể đạt khoảng 147%. Nếu tín dụng tiếp tục tăng 16-17% mỗi năm, đến năm 2030 con số này có thể lên tới 180-185% GDP, thuộc nhóm cao nhất thế giới. Trong khi đó, tại Mỹ, dù tỷ lệ tín dụng/GDP đạt 198%, nhưng nếu chỉ tính riêng khối ngân hàng thương mại thì con số này chỉ khoảng 80%, phần còn lại đến từ các tổ chức tài chính phi ngân hàng.
Không thể tăng trưởng bằng mọi giá
Trước thực tế đó, các chuyên gia đều nhấn mạnh sự cần thiết phải thay đổi tư duy tăng trưởng dựa quá nhiều vào vốn tín dụng. TS Cấn Văn Lực cho rằng Việt Nam không thể tiếp tục đi theo mô hình tăng trưởng dựa trên khối lượng vốn lớn như một số quốc gia trong quá khứ, mà cần chuyển sang mô hình chú trọng hiệu quả sử dụng vốn. Thay vì huy động bằng mọi giá, cần phân bổ nguồn lực một cách tối ưu, nâng cao chất lượng tăng trưởng.
Đồng quan điểm, TS Lê Xuân Sang, Phó Viện trưởng Viện Kinh tế Việt Nam và Thế giới cho rằng hiệu suất tín dụng/GDP của Việt Nam đã suy giảm đáng kể trong nhiều thập kỷ qua. Nguyên nhân chủ yếu là dòng vốn bị “rò rỉ” vào các lĩnh vực phi sản xuất, làm giảm hiệu quả sử dụng vốn và gia tăng rủi ro hệ thống.
Theo các chuyên gia, tăng trưởng tín dụng giai đoạn tới không thể tiếp tục theo chiều rộng mà cần chuyển mạnh sang chiều sâu, gắn với tái cấu trúc nguồn vốn và nâng cao hiệu quả phân bổ. Để làm được điều đó, phát triển thị trường vốn là yêu cầu cấp bách, đặc biệt là thị trường trái phiếu doanh nghiệp và cổ phiếu nhằm cung cấp nguồn vốn trung và dài hạn cho nền kinh tế.
Bên cạnh đó, việc khai thác các nguồn tài chính bền vững, tài chính xanh, phát triển thị trường tài sản số, nâng hạng thị trường chứng khoán, xây dựng trung tâm tài chính quốc tế cũng được xem là những hướng đi quan trọng để giảm áp lực lên hệ thống ngân hàng.
Đồng bộ giải pháp để phát triển thị trường tín dụng bền vững
Tại Diễn đàn, các chuyên gia thống nhất rằng Việt Nam có tiềm năng lớn trong huy động nguồn lực, song đang đối mặt với nhiều điểm nghẽn về thể chế, cấu trúc thị trường và quản trị rủi ro. Do đó, cần một chiến lược tổng thể về huy động, phân bổ và sử dụng nguồn lực, gắn với nâng cao năng suất lao động và chất lượng tăng trưởng.
TS Cấn Văn Lực đề xuất mô hình phát triển dựa trên ba trụ cột: Đầu tư - Bơm vốn - Đổi mới sáng tạo, trong đó nhấn mạnh vai trò của cải cách thể chế, hoàn thiện khung pháp lý cho các mô hình mới như tài chính xanh, thị trường carbon, trung tâm tài chính quốc tế, tài sản số; phát triển cân bằng thị trường tài chính; đa dạng hóa các định chế tài chính; nâng cao năng lực giám sát và quản trị rủi ro; đẩy nhanh tháo gỡ các dự án tồn đọng để khơi thông nguồn lực xã hội.
Bổ sung góc nhìn, TS Lê Xuân Sang cho rằng, cần tiếp tục đa dạng hóa nguồn vốn thông qua phát triển thị trường chứng khoán, đặc biệt là thị trường trái phiếu; lành mạnh hóa thị trường cổ phiếu; kiểm soát các đòn bẩy tài chính phi chính thức; hoàn thiện khung pháp lý cho tín dụng xanh; nâng cao hệ thống dự báo và cảnh báo rủi ro tín dụng. Đồng thời, cần ưu tiên đầu tư vào các lĩnh vực có lợi thế so sánh cao như năng lượng tái tạo, thương mại điện tử, công nghệ số, hệ sinh thái đổi mới sáng tạo - những lĩnh vực có khả năng thúc đẩy tăng trưởng nhưng ít gây áp lực lạm phát.
Trong khuôn khổ Diễn đàn, các chuyên gia cũng trao đổi sâu về vai trò của tín dụng trong hỗ trợ khu vực kinh tế tư nhân, tác động của chính sách lãi suất, rủi ro hệ thống và yêu cầu phối hợp chặt chẽ giữa chính sách tài khóa - tiền tệ. Việc xây dựng khung chính sách tài chính - tiền tệ thống nhất, tăng cường niềm tin thị trường và cải thiện môi trường đầu tư được coi là điều kiện tiên quyết để phát triển bền vững.
Diễn đàn “Thị trường tín dụng và những vấn đề kinh tế vĩ mô” được kỳ vọng trở thành không gian đối thoại thực chất giữa cơ quan quản lý, tổ chức tín dụng, doanh nghiệp và giới chuyên gia, qua đó góp phần định hình tư duy phát triển mới cho thị trường tín dụng Việt Nam - nơi tín dụng không chỉ là động lực tăng trưởng, mà còn là công cụ bảo đảm ổn định kinh tế vĩ mô và nâng cao chất lượng phát triển trong dài hạn./.
Thanh Phong