Logo

Multimedia

  • Sự kiện nổi bật
    • Trong nước
    • Quốc tế
    • Xây dựng Đảng
  • Nghiên cứu - trao đổi
  • Lao động
    • Việc làm
    • An toàn lao động
    • Tiền lương
    • Bảo hiểm xã hội
    • Giáo dục - Nghề nghiệp
  • Người có công
  • Chính sách xã hội
    • Thanh niên và bình đẳng giới
    • Giảm nghèo
    • An sinh xã hội
  • Kinh tế
    • Doanh nghiệp
    • Thị trường - Tiêu dùng
    • Tài chính - Bất động sản
  • Pháp luật
    • Văn bản pháp luật
    • Giải đáp pháp luật
  • Văn hóa
    • Thể thao
    • Du lịch
  • Đời sống
  • English Review
  • Multimedia
Logo
  • Trang chủ
  • Sự kiện nổi bật
    • Trong nước
    • Quốc tế
    • Xây dựng Đảng
  • Nghiên cứu - trao đổi
  • Lao động
    • Việc làm
    • An toàn lao động
    • Tiền lương
    • Bảo hiểm xã hội
    • Giáo dục - Nghề nghiệp
  • Người có công
  • Chính sách xã hội
    • Thanh niên và bình đẳng giới
    • Giảm nghèo
    • An sinh xã hội
  • Kinh tế
    • Doanh nghiệp
    • Thị trường - Tiêu dùng
    • Tài chính - Bất động sản
  • Pháp luật
    • Văn bản pháp luật
    • Giải đáp pháp luật
  • Văn hóa
    • Thể thao
    • Du lịch
  • Đời sống
  • English Review
  • Multimedia
  • Sự kiện nổi bật
    • Trong nước
    • Quốc tế
    • Xây dựng Đảng
  • Nghiên cứu - trao đổi
  • Lao động
    • Việc làm
    • An toàn lao động
    • Tiền lương
    • Bảo hiểm xã hội
    • Giáo dục - Nghề nghiệp
  • Người có công
  • Chính sách xã hội
    • Thanh niên và bình đẳng giới
    • Giảm nghèo
    • An sinh xã hội
  • Kinh tế
    • Doanh nghiệp
    • Thị trường - Tiêu dùng
    • Tài chính - Bất động sản
  • Pháp luật
    • Văn bản pháp luật
    • Giải đáp pháp luật
  • Văn hóa
    • Thể thao
    • Du lịch
  • Đời sống
  • English Review
  • Multimedia
  • Trang chủ
  • Chính sách xã hội
  • An sinh xã hội

Nguyễn Văn Tố - người được Chủ tịch Hồ Chí Minh “chọn mặt gửi vàng” làm Bộ trưởng Bộ Cứu tế xã hội

Ngày đăng:

23/08/2025 

| Đọc bài viết |
aA

Cụ Nguyễn Văn Tố, hiệu Ứng Hòe (1889 - 1947), sinh ra trong một gia đình nhà nho yêu nước, quê gốc ở tỉnh Hà Đông, nay thuộc thành phố Hà Nội. Là một nhà tri thức, nhà văn hóa với hiểu biết uyên thâm về lịch sử, văn hóa, ông là một trong những người sáng lập và truyền bá chữ quốc ngữ năm 1938.

Ngay sau Cách mạng tháng Tám, Nguyễn Văn Tố được Chủ tịch Hồ Chí Minh “chọn mặt gửi vàng” mời về làm Bộ trưởng Bộ Cứu tế xã hội trong Chính phủ lâm thời (sau này là Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội và nay là Bộ Nội vụ). Thời gian công tác với cương vị Bộ trưởng Bộ Cứu tế xã hội tuy ngắn (từ ngày 18/8/1945 đến ngày 2/3/1946), nhưng với trách nhiệm và nhiệt huyết đối với dân và Chính phủ, ông đã có nhiều công hiến to lớn với cách mạng Việt Nam…

Bộ trưởng Bộ Cứu tế xã hội với việc giải quyết nạn đói 

Cách mạng tháng Tám năm 1945 thắng lợi, bên cạnh việc phải thực hiện những nhiệm vụ quan trọng khác, để củng cố và giữ vững chính quyền cách mạng, cần phải tạo nên một nền tảng xã hội vững chắc, một chính quyền cách mạng của dân, do dân và vì dân. Chính vì vậy, ngày 28/8/1945, Chính phủ lâm thời của Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ra tuyên cáo thành lập 13 Bộ, trong đó có Bộ Cứu tế xã hội.

Ngày 3/9/1945, chỉ một ngày sau khi Nhà nước cách mạng ra đời, Chính phủ lâm thời nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa đã họp phiên họp đầu tiên và đề ra sáu nhiệm vụ cấp bách, trong đó diệt “giặc đói”, “giặc dốt” trở thành một nhiệm vụ quan trọng ngang hàng diệt “giặc ngoại xâm”. Diệt “giặc đói”, “giặc dốt” là vấn đề cấp bách, cần kíp đòi hỏi sự nỗ lực của tất cả mọi thành viên của Chính phủ lâm thời và sự đồng lòng, đồng sức của toàn dân trong đó có vai trò quan trọng của Bộ trưởng Bộ Cứu tế xã hội - Nguyễn Văn Tố.

Ảnh tư liệu.

Chính quyền cách mạng non trẻ mới thành lập, đã phải đối mặt với muôn vàn khó khăn và một trong những khó khăn lớn nhất là “giặc đói”. Trước đó, chế độ thực dân, nhất là hậu quả trực tiếp của chính sách kinh tế thời chiến của Pháp và Nhật trong thời kỳ chiến tranh thế giới thứ hai đã làm cho nền kinh tế, tài chính của nước ta xơ xác, tiêu điều; từ nửa cuối năm 1944 thiên tai, hạn hán, lũ lụt liên tiếp làm cho nạn đói ở Bắc Bộ và Bắc Trung Bộ càng thêm thảm khốc, dẫn đến hậu quả 2 triệu đồng bào bị chết đói chưa khắc phục được thì nạn đói mới đang có nguy cơ xảy ra.

Theo đề nghị của Chủ tịch Hồ Chí Minh, trong phiên họp của Hội đồng Chính phủ ngày 3/9/1945, Chính phủ đã quyết định phải chống giặc đói, “Những người thoát chết đói, nay cũng bị đói. Chúng ta phải làm như thế nào cho họ sống” (Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, tập 4, trang 7, 33). Để cứu hàng triệu người thoát đói, bên cạnh việc phá kho thóc của Nhật để cứu đói cho dân nghèo, Chính phủ động viên đồng bào tương thân, tương trợ, sẻ cơm nhường áo, giúp đỡ nhau vượt qua nạn đói và phát động ngay một chiến dịch tăng gia sản xuất.

Ngày 28/9/1945, trong bức thư gửi toàn thể đồng bào đăng trên báo Cứu quốc, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ra lời kêu gọi: “Lúc chúng ta nâng bát cơm mà ăn, nghĩ đến kẻ đói khổ, chúng ta không khỏi động lòng. Vậy, tôi đề nghị đồng bào cả nước, và tôi xin thực hành trước: Cứ 10 ngày nhịn ăn một bữa, mỗi tháng nhịn 3 bữa. Đem gạo đó (mỗi bữa một bơ) để cứu dân nghèo. Như vậy, thì những người nghèo sẽ có bữa rau bữa cháo để chờ mùa lúa năm sau, khỏi đến nỗi chết đói” (Hồ Chí Minh: Toàn tập, sđd, tập 4, trang 33).

Tại Thủ đô Hà Nội, ngày 11/10/1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh thân hành đến Nhà hát Lớn thành phố để đóng góp bát gạo đầu tiên và cử hành lễ xuất phát của “đoàn quân tiễu trừ giặc đói”. Nhân dân khắp nơi tự nguyện thực hiện, cứ 10 ngày nhịn ăn 1 bữa, mỗi tháng nhịn ăn 3 bữa, đem số gạo đó ủng hộ người nghèo.

Khơi dậy truyền thống yêu nước, nhân ái, đồng cam cộng khổ

Ngày 2/11/1945, trên cương vị Bộ trưởng Bộ Cứu tế xã hội, Nguyễn Văn Tố đã quyết định thành lập Hội Cứu đói. Ban đầu, Hội được thành lập ở một số tỉnh đồng bằng Bắc Bộ, sau đó nhanh chóng lan rộng khắp cả nước. Từ các làng, xã, thôn, bản đến các xí nghiệp sản xuất, các cơ quan đều thành lập các hội lớn, nhỏ để vận động đồng bào đóng góp lương thực ủng hộ người nghèo. Phương pháp hoạt động chủ yếu là tìm nguồn thực phẩm, tiền và vải do các nhà hảo tâm giúp đỡ; phát triển sản xuất, khuyến khích công việc đồng áng và trông nom đê điều; giúp đỡ nhân dân trong việc khai khẩn đất hoang hóa để tăng gia sản xuất. 

Không chỉ đề ra quyết định thành lập Hội cứu đói, Bộ trưởng Nguyễn Văn Tố còn trực tiếp thực hiện nhiều chuyến “vi hành” đến các địa phương như: Thái Bình, Thái Nguyên, Hưng Yên, Nam Định chỉ đạo thành lập Hội cứu đói. Các biện pháp ông đưa ra đã khơi dậy truyền thống yêu nước, nhân ái, đồng cam cộng khổ, đoàn kết đùm bọc, giúp đỡ lẫn nhau của toàn dân tộc trong hoàn cảnh hiểm nghèo.

Hưởng ứng những chủ trương của Chính phủ và của Bộ Cứu tế xã hội, một phong trào thi đua cứu đói nổi lên rầm rộ khắp cả nước dưới muôn vàn hình thức khác nhau. Ở Hà Nội, Nam Định, xuất hiện các xe bò bác ái đi quyên góp khắp các con phố; nhân dân Hưng Yên nhận đỡ đầu nhân dân Thái Bình; đồng bào thành phố Nam Định gửi 2 chuyến tàu gạo ra giúp các tỉnh lân cận; nhiều làng ở Bắc Ninh tự nguyện bỏ hủ tục ăn uống lãng phí để tiết kiệm lương thực giúp đỡ người nghèo...

Ngoài việc thành lập Hội cứu đói, Bộ trưởng Nguyễn Văn Tố còn trực tiếp kêu gọi các địa phương hưởng ứng lời kêu gọi tương thân, tương ái của Chủ tịch Hồ Chí Minh, thực hiện các biện pháp như “Hũ gạo tiết kiệm” và “Những ngày đồng tâm nhịn ăn”, kêu gọi đồng bào chia sẻ với những hoàn cảnh khó khăn. Bên cạnh đó, công tác tuyên truyền vận động các nhà tư sản, địa chủ bỏ tiền của, thóc gạo cứu đói cũng được chú trọng. Kết quả, có nhiều địa chủ nhiệt tình, hăng hái tham gia đóng góp, có người tự nguyện góp tới 50 tấn thóc, lại có người góp cả số hoa lợi trên 600 mẫu ruộng của họ. Cả nước sôi nổi hưởng ứng, người người tham gia, không phân biệt giai cấp, đảng phái, tôn giáo. 

Ngày 21/11/1945, tại cuộc họp Hội đồng Chính phủ, Bộ trưởng Bộ Cứu tế Nguyễn Văn Tố đã nêu lên những thành tựu của Bộ Cứu tế trong thời gian từ tháng 9 đến tháng 11/1945. Chỉ trong thời gian 2 tháng, Bộ Cứu tế đã quyên tiền ở cả ba miền. Tổng cộng tiền ở quỹ cứu tế là 160.000.000 đồng; đồng thời, Bộ Cứu tế đã giao người phụ trách tải gạo từ Nam ra Bắc và giao gạo cho Hội cứu đói. Việc sẻ cơm nhường áo ở Hà Nội đạt kết quả khả quan (Biên bản Hội đồng Chính phủ năm 1945, H32C1/01, Bản sao tại Bảo tàng Hồ Chí Minh, trang 122-133). Có thể khẳng định chỉ trong một thời gian ngắn, Bộ Cứu tế xã hội đã có đóng góp to lớn vào việc giải quyết nạn đói có thể còn tái diễn.

Ngày 28/11/1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh ký Sắc lệnh số 67 thành lập Ủy ban tối cao tiếp tế và cứu tế của Chính phủ, gồm: Bộ trưởng Bộ Quốc dân Kinh tế, Bộ Canh nông, Bộ Cứu tế xã hội. Ủy ban có toàn quyền hành động để nghiên cứu và thi hành những biện pháp cần thiết tăng gia sản xuất để tiếp tế và cứu tế cho nhân dân trên toàn cõi Việt Nam.

Xét thấy yêu cầu và nhiệm vụ của Chính phủ đặt ra là phải thực hiện ngay các biện pháp cứu tế xã hội, ngày 31/12/1945, Bộ trưởng Bộ Cứu tế xã hội Nguyễn Văn Tố đã ký ban hành sắc lệnh 63 về thành lập Hội cứu tế xã hội. Sắc lệnh tập trung vào hai điều lớn. Điều thứ nhất quy định nhiệm vụ của Hội cứu tế xã hội gồm: “Một là, cứu giúp và vận động nhân dân tương trợ giúp đỡ những người lao động đói rách do thiên tai địch họa gây ra mà không tự giải quyết được. Hai là, cứu giúp và vận động nhân dân tương trợ giúp đỡ những người mất sức lao động hoàn toàn và không có nơi nương tựa như cô nhi, trẻ em lưu lạc, người già cô đơn, người bệnh tật, mù lòa… và tạo điều kiện dần dần làm cho họ có thể tự túc hoàn toàn hoặc một phần kinh phí. Ba là, giúp đỡ, cải tạo những người chưa quen lao động do xã hội cũ gây ra như gái điếm, lưu manh, nghiện hút, cơ nhỡ... và tạo điều kiện cho họ sinh sống” (Công báo năm 1945, số 2; trang 27, Trung tâm lưu trữ quốc gia III).

Trên cơ sở nhiệm vụ đó, sắc lệnh yêu cầu ở mỗi miền Bắc – Trung - Nam phải thành lập một cơ sở y tế ở địa phương để có thể thực hiện tốt công tác cứu tế khi đời sống của nhân dân tại địa phương gặp khó khăn. Khi có vướng mắc có thể liên lạc với Hội cứu tế xã hội của Chính phủ.

Hội cứu tế xã hội được xem như một tổ chức xã hội do Bộ Cứu tế thành lập nhằm hỗ trợ và phối hợp với Bộ Cứu tế trong việc giải quyết những vấn đề xã hội nảy sinh do nạn đói gây ra. Tổ chức ra đời và hoạt động theo cơ cấu, nhiệm vụ tài chính, quy trình hoạt động của tổ chức cứu tế xã hội. Trên cơ sở đó, Bộ trưởng Nguyễn Văn Tố còn chỉ rõ nhiệm vụ cụ thể của các phòng, ban trong Hội cứu tế xã hội. Cụ thể: Ban Cứu đói có nhiệm vụ xem xét tình hình đời sống nhân dân trong nạn đói để ấn định phương pháp chẩn tế; Ban thóc gạo có nhiệm vụ thu mua thóc gạo, trông nom công tác vận tải để thiết lập các kho chứa gạo; Ban di dân tiến hành điều tra và tìm việc cho nạn nhân với sự phối hợp với Bộ Canh nông và Bộ Lao động; Ban hội thiện tiến hành giám sát các hội có tính cách cứu tế xã hội tổ chức, xem xét sự thu chi của các hội đó; Ban dân sinh có nhiệm vụ tuyên truyền, phổ biến các điều lệ trong quá trình cứu tế.

Để có sự thống nhất trong cách thức vận động của các tổ chức xã hội, đồng thời đảm bảo hoạt động của Hội cứu tế xã hội, ngày 18/01/1946, Bộ trưởng Nguyễn Văn Tố ra 2 sắc lệnh số 8 về giải tán hội “Fondation Jules Bresvie” (Hội được thực dân Pháp thành lập năm 1933) và sắc lệnh số 9 về giải tán hội “Bảo trợ phụ nữ và nhi đồng” (Hội được thực dân Pháp thành lập năm 1940). Sau khi giải tán, toàn bộ tài sản hai hội này được tập trung giao cho Bộ Cứu tế xã hội quản lý và lấy làm kinh phí hoạt động để thực hiện nhiệm vụ cứu tế xã hội.

Tiếp đến, để cuộc vận động cứu tế xã hội thành công phù hợp với chức năng, nhiệm vụ của nó được đề ra ngay từ những ngày đầu thành lập, Bộ trưởng Nguyễn Văn Tố còn phát động nhiều cuộc vận động quyên góp ủng hộ người lao động nghèo. Tiêu biểu là cuộc vận động ủng hộ quỹ cứu đói của nhân dân Bắc Bộ do Bộ Cứu tế phát động.

Nổi bật là cuộc quyên góp ủng hộ của nhân dân Hà Nội đối với đồng bào nghèo ở trại Giáp Bát “Tiền và thực phẩm nuôi đồng bào nghèo ở trại Giáp Bát, gồm: tiền 13.000 đồng, gạo 2.400 tạ, ngô 82 tạ, khoai 17 tạ, sắn 132 tạ” (Báo Cứu quốc số 132, ngày 3/1/1946; Trung tâm lưu trữ quốc gia III). Ngày 29/12/1945, tại xã Phúc Xá và xã Phúc Tân đã diễn ra cuộc phát chẩn tiền cho khoảng 4.000 dân nghèo. Số tiền này do Chính phủ giao cho Bộ Cứu tế để làm việc nghĩa.

Không chỉ ở khu vực Bắc Bộ, hưởng ứng lời kêu gọi của Bộ cứu tế, phong trào ủng hộ đồng bào để cứu đói diễn ra sâu rộng khắp các tỉnh thành trong cả nước. Bộ trưởng Nguyễn Văn Tố thời điểm này còn tiến hành tổ chức nhiều triển lãm về chủ đề “nạn đói”. Thông qua các buổi triển lãm, đã tố cáo tội ác của thực dân Pháp và phát xít Nhật đối với Nhân dân ta; đồng thời, tranh thủ kêu gọi sự ủng hộ lạc quyên của đông đảo đồng bào đối với nhân dân lao động.

Vị Bộ trưởng giản dị, xông xáo, nhân hậu 

Để đánh tan “giặc đói” không chỉ thực hiện những giải pháp cấp cứu trước mắt mà điều quan trọng là phải giải quyết vấn đề từ gốc: tăng gia sản xuất.

Tăng gia sản xuất không chỉ là cơ sở để giải quyết triệt để nạn đói, mà còn là cơ sở cho toàn bộ chính sách kinh tế của Chính phủ Cách mạng Việt Nam. Chủ tịch Hồ Chí Minh nêu rõ “Hiện nay, chúng ta có hai việc quan trọng nhất: Cứu đói ở Bắc và kháng chiến ở Nam. "Thực túc" thì "binh cường", cấy nhiều thì khỏi đói. Chúng ta thực hiện "tấc đất, tấc vàng" thì chúng ta quyết thắng lợi trong hai việc đó. Tăng gia sản xuất! Tăng gia sản xuất ngay! Tăng gia sản xuất nữa! Đó là khẩu hiệu của ta ngày nay. Đó là cách thiết thực của chúng ta để giữ vững quyền tự do, độc lập” (Hồ Chí Minh: Toàn tập, sđd, tập 4, trang 134-135).

Chính phủ đã lập Ủy ban Trung ương phụ trách sản xuất. Trên cương vị Bộ trưởng Bộ Cứu tế xã hội, Nguyễn Văn Tố đã tích cực tham gia và có đóng góp lớn vào việc tăng gia sản xuất. 

Trong nhiều phiên họp của Hội đồng Chính phủ, Bộ trưởng Nguyễn Văn Tố đã đề nghị Chính phủ, Bộ Tài chính xem xét để tạo điều kiện giúp đỡ tài chính cho việc mua thóc giống, tăng gia sản xuất. Đồng thời, Bộ Cứu tế đã trực tiếp giúp nông dân mua thóc giống nhằm tăng gia sản xuất.

Ngày 15/11/1945, Bộ trưởng Bộ Cứu tế xã hội Nguyễn Văn Tố đã chủ trì phối hợp với Bộ Quốc dân Kinh tế ký Nghị định số 41-BKT nêu rõ một loạt biện pháp nhằm khuyến khích tận dụng nguồn đất đai trồng màu cứu đói. Các biện pháp cứu đói lúc này được xác định:

- Đối với những người có ruộng phải khai báo với chính quyền địa phương về diện tích canh tác thực tế. Trong số đó, diện tích nào chưa canh tác thì cho những hộ thiếu ruộng trồng màu cứu đói.

- Người mượn ruộng phải đảm bảo canh tác hết số diện tích đó trước Tết âm lịch.

- Vì số lượng trâu bò bị chết trong trận lũ lịch sử và nạn đói nên sức kéo khan hiếm nghiêm trọng. Để khắc phục khó khăn này, các địa phương cần tổ chức sử dụng các loại nông cụ nhỏ và nhẹ để có thể sử dụng sức người thay cho sức kéo trâu bò.

Ngoài những biện pháp trên, Bộ Cứu tế xã hội phối hợp với Bộ Canh nông tổ chức thêm những cơ sở tăng gia tập thể, dùng nguồn đất công cộng còn trống như sân bãi, vỉa hè, bờ đê, vận động các cá nhân sử dụng tạm những mảnh vườn trống để tăng gia sản xuất. Đây là cuộc chiến lâu dài, đòi hỏi sự tham gia tích cực của mọi thành phần trong xã hội, vì thế Bộ Cứu tế xã hội chỉ thị cho Hội cứu tế cần làm tốt công tác tuyên truyền, vận động “mọi thành phần xã hội đều tham gia trồng trọt. Lực lượng tham gia có thể là thanh niên, học sinh, sinh viên, trí thức, vệ quốc đoàn, công nhân, viên chức, phụ lão... Mỗi địa phương lập ra một tiểu ban để huy động nhân lực và tổ chức sản xuất. Lương thực làm được dùng cho mục đích tiếp tế và cứu tế” (Công báo năm 1946; trang 11).

Hưởng ứng lời kêu gọi của Chính phủ và Bộ Cứu tế xã hội, một phong trào thi đua cứu đói nổi lên rầm rộ khắp cả nước dưới muôn vàn hình thức khác nhau, chỗ nào còn đất trống có thể trồng trọt được đều được trồng rau màu ngắn ngày (ở Hà Nội, học sinh đã cuốc xới cả sân trường, vỉa hè và bất cứ nơi nào còn đất trống, công chức tiến hành cuốc vườn ngay tại công sở để trồng ngô, khoai, thanh niên thành phố chia thành những đội tăng gia đi trồng sắn ở bờ đê, bãi sông, lề đường). Nông dân tiến hành khai phá ruộng hoang, ruộng đay, thầu dầu bị Nhật bắt trồng trước đây chuyển sang trồng cây lương thực. 

Chỉ sau một tháng vận động, diện tích trồng trọt đã tăng lên. Đến lúc giáp hạt, thì ngô, khoai đã có thu hoạch. Nạn đói từng bước được đẩy lùi. Đời sống của nhân dân, nhất là nông dân lao động được ổn định, khối liên minh công nông được củng cố, nền tảng của chế độ thêm vững chắc. Kết quả sản lượng màu đã tăng gấp bốn lần so với thời kỳ Pháp thuộc. Chỉ trong năm tháng từ tháng 11/1945 đến tháng 5/1946 đã đạt 614.000 tấn, qui ra thóc là 506.000 tấn, hoàn toàn có thể bù đắp được số thiếu hụt của vụ mùa năm 1945. Bằng chứng rõ nhất là dân không đói, giá thóc gạo không tăng mà lại giảm. Giặc đói đã bị đánh lui.

Với sự đồng sức, đồng lòng của nhân dân khắp cả nước cùng đánh đuổi giặc đói, đến cuối năm 1946 nạn đói đã cơ bản được giải quyết. Đánh giá thành tích này, trong lễ kỷ niệm một năm độc lập, Quốc khánh 2/9/1946, Bộ trưởng Bộ Nội vụ Võ Nguyên Giáp tuyên bố: “Cuộc cách mạng đã chiến thắng được nạn đói, thật là một kỳ công của chế độ dân chủ” (Báo Cứu quốc, số ra ngày 19/5/1948).

Nguyễn Văn Tố là nhà yêu nước, nhà cách mạng, người chiến sĩ kiên trung của cách mạng Việt Nam. Ở bất kỳ cương vị nào, ông cũng đều trung thành, tận tụy, hết lòng vì dân, vì nước, cống hiến hết tài năng và sức lực của mình. Với tư cách là Bộ trưởng đầu tiên của Bộ Cứu tế xã hội, tuy thời gian không dài, nhưng ông đã có những đóng góp quan trọng vào việc củng cố và giữ vững chính quyền cách mạng ngày đầu thành lập, đẩy lùi nạn đói lịch sử, cổ vũ tinh thần cách mạng của nhân dân, chuẩn bị cho cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp.

Với tác phong nhanh nhẹn, dứt khoát, gần gũi với những người lao động, Bộ trưởng Nguyễn Văn Tố đã nhạy bén, chủ động, sáng tạo đưa ra những quyết sách đúng đắn, cùng Chính phủ chèo lái con thuyền cách mạng vượt qua mọi hiểm nghèo. Hình ảnh một vị Bộ trưởng giản dị, xông xáo, nhân hậu, lăn lộn cùng dân vận động thành lập Hội cứu đói, cùng Chính phủ và toàn dân bảo vệ thành quả cách mạng trong những năm 1945 - 1946 sống mãi cùng lịch sử dân tộc Việt Nam./.

Chí Tâm

Chủ đề:

An sinh xã hội

Chia sẻ
★ Tiêu điểm
Điểm trúng tuyển đại học hệ chính quy của Trường Đại học Lao động - Xã hội cao nhất là 24,75 điểm
Điểm trúng tuyển đại học hệ chính quy của Trường Đại học Lao động - Xã hội cao nhất là 24,75 điểm
Nguyễn Văn Tố - người được Chủ tịch Hồ Chí Minh “chọn mặt gửi vàng” làm Bộ trưởng Bộ Cứu tế xã hội
Nguyễn Văn Tố - người được Chủ tịch Hồ Chí Minh “chọn mặt gửi vàng” làm Bộ trưởng Bộ Cứu tế xã hội
Ngành Văn hóa Việt Nam 80 năm đồng hành cùng sự nghiệp cách mạng vẻ vang của Đảng và dân tộc
Ngành Văn hóa Việt Nam 80 năm đồng hành cùng sự nghiệp cách mạng vẻ vang của Đảng và dân tộc

Tin cùng chuyên mục

  • “Ký ức mùa thu’ - Dấu ấn nghệ thuật lan tỏa niềm tự hào dân tộc đối với người cao tuổi

  • CLB Nhà báo Xứ Nghệ tại TP.HCM trao tặng 200 xe đạp cho học sinh nghèo hiếu học tỉnh Nghệ An

  • Đồng Nai: Huy động hơn 100 cán bộ, chiến sĩ giúp dân khắc phục hậu quả thiên tai

  • Herbalife Việt Nam tổ chức Ngày hiến máu tình nguyện 2025 tại TP. Hồ Chí Minh và Hà Nội

  • Phạm Như Phương - Louis Phạm: Khi lòng nhân ái dẫn lối hành trình

  • Hà Tĩnh quyết tâm hoàn thành xóa nhà tạm, nhà dột nát

Logo footer

Trụ sở tòa soạn: Tầng 5, số 37 Nguyễn Bỉnh Khiêm, phường Hai Bà Trưng, TP Hà Nội.

Điện thoại: 024 32013846

Email: tapchitcnnld@moh.gov.vn

Giấy phép hoạt động số: 34/GP-BC ngày 17/6/2025 của Cục Báo chí - Bộ VHTT&DL

Cơ quan chủ quản: Bộ Nội vụ

Tổng Biên tập: TS Trần Nghị

Phó Tổng Biên tập: ThS Bùi Đức Tùng, ThS Nguyễn Văn Vỹ

Trưởng Ban Tạp chí điện tử: ThS Trần Ngọc Kiên

Ghi rõ nguồn “Lao động và Xã hội - Chuyên trang của Tạp chí Tổ chức nhà nước và lao động” khi phát hành lại thông tin từ Website này.