Ngày đăng:
10/07/2025
Luật Việc làm (sửa đổi) được Quốc hội thông qua ngày 16/6/2025 (có hiệu lực từ 1/1/2026) mang nhiều thay đổi quan trọng trong chính sách bảo hiểm thất nghiệp (BHTN). So với Luật Việc làm hiện hành (số 38/2013/QH13), các quy định mới mở rộng đối tượng tham gia và nâng cao quyền lợi cho người lao động.
Mức đóng và nguồn hình thành Quỹ BHTN
Luật mới tiếp tục quy định người lao động và người sử dụng lao động cùng đóng 1% lương tháng (trong giới hạn nhất định) vào quỹ BHTN. Tuy nhiên, thay vì quy định cứng 1%, Luật mới quy định mức đóng tối đa bằng 1% mức lương hoặc quỹ tiền lương tháng đóng BHTN, để Chính phủ điều chỉnh linh hoạt tùy tình hình thực tế. Cụ thể, Luật hiện hành đã quy định: người lao động đóng bằng 1% tiền lương tháng; người sử dụng lao động đóng bằng 1% quỹ tiền lương của người tham gia. Luật mới giữ nguyên tỷ lệ 1% đối với cả hai phía nhưng cho phép thay đổi trong khung “tối đa 1%” này. Đồng thời, Luật mới bổ sung cơ chế khuyến khích: trong các trường hợp khủng hoảng, suy thoái kinh tế, thiên tai, dịch bệnh nguy hiểm hay kết dư quỹ lớn, Chính phủ được giao quyền giảm mức đóng hoặc hỗ trợ tiền cho người lao động để kịp thời hỗ trợ thị trường lao động.
Về nguồn hình thành quỹ, Luật mới vẫn duy trì cơ chế hiện hành. Quỹ BHTN gồm: kinh phí đóng của người lao động, người sử dụng lao động và ngân sách Nhà nước hỗ trợ (tối đa 1% theo quy định hiện hành). Ngoài ra, quỹ được bổ sung từ tiền sinh lời đầu tư của quỹ và các khoản thu hợp pháp khác. Như vậy, thành phần đóng góp cơ bản không đổi, chỉ khác ở chỗ Luật mới cho phép điều chỉnh linh hoạt tỷ lệ đóng thay vì “cứng” 1%.
Mở rộng đối tượng tham gia BHTN
Một trong những điểm mới nổi bật của Luật Việc làm sửa đổi là mở rộng phạm vi bắt buộc tham gia BHTN. Luật hiện hành quy định bắt buộc tham gia BHTN với người lao động làm việc theo hợp đồng lao động(không xác định thời hạn, xác định thời hạn) hoặc hợp đồng theo mùa vụ/công việc nhất định có thời hạn từ đủ 3 tháng đến dưới 12 tháng. Những trường hợp ngắn hạn dưới 3 tháng không phải đóng BHTN.
Trong khi đó, Luật sửa đổi mở rộng bao gồm thêm nhiều nhóm lao động trước đây chưa bắt buộc. Cụ thể, các đối tượng mới được bổ sung là: lao động ký hợp đồng lao động có thời hạn từ đủ 1 tháng đến dưới 3 tháng; lao động có hợp đồng không xác định thời hạn (hoặc loại hợp đồng khác) nhưng hưởng lương hàng tháng bằng hoặc cao hơn mức lương cơ sở (theo Luật BHXH 2024). Ngoài ra, Luật mới quy định thụ lý tham gia BHTN cả những trường hợp làm việc có trả lương theo hình thức khác (theo thỏa thuận bằng tên gọi khác) nhưng có sự quản lý, giám sát của một bên. Nói cách khác, nếu hình thức hợp đồng lao động không truyền thống nhưng vẫn trả lương và có tính chất lao động, người lao động đó sẽ được tính tham gia bảo hiểm. Ngoài các nhóm nêu trên, Luật giao Ủy ban Thường vụ Quốc hội quyết định mở rộng thêm đối tượng BHTN khác trên cơ sở đề xuất của Chính phủ, nhằm từng bước đạt mục tiêu khoảng 45% lực lượng lao động tham gia BHTN vào năm 2030.
Tóm lại, so với quy định cũ chỉ bao gồm các hợp đồng dài trên 3 tháng, Luật mới đã rút ngắn thời gian hợp đồng thấp nhất cần tham gia xuống còn 1 tháng, và mở rộng về nhóm công việc trả lương khác. Điều này có nghĩa là một số lượng lớn lao động hợp đồng ngắn hạn hay làm việc không theo lao động chính thức sẽ bị bắt buộc đóng BHTN từ năm 2026, tăng đáng kể quy mô người tham gia so với trước.
Căn cứ và mức tiền lương làm cơ sở đóng BHTN
Luật Việc làm sửa đổi tiếp tục quy định căn cứ đóng BHTN là tiền lương tháng thực trả (được xác định theo quy định của Luật BHXH). Theo đó, người lao động thuộc “chế độ tiền lương của Nhà nước” (cán bộ, công chức, viên chức) thì tiền lương đóng BHTN là tiền lương theo ngạch, bậc lương và các khoản phụ cấp đặc thù được tính trên mức lương cơ sở. Đối với lao động “chế độ tiền lương do người sử dụng lao động quyết định” (đóng góp theo hợp đồng lao động thông thường), tiền lương đóng BHTN gồm mức lương chính theo hợp đồng (thang bảng lương của DN) và các phụ cấp lương có tính tiền cụ thể (phụ cấp chức vụ, tiền thưởng, phụ cấp lưu trữ, v.v.). Như vậy, tiền lương tính đóng BHTN giữa khu vực công và tư cơ bản không đổi: khu vực công căn cứ theo hệ thống lương của Nhà nước, khu vực tư theo thỏa thuận và các phụ cấp liên quan.
Về mức trần tiền lương làm căn cứ đóng BHTN, Luật sửa đổi vẫn duy trì quy định hiện hành là gấp 20 lần mức lương cơ sở (với lao động trả lương theo bảng lương Nhà nước) hoặc gấp 20 lần mức lương tối thiểu vùng (với lao động trả lương theo thỏa thuận của doanh nghiệp). Cụ thể, nếu người lao động hưởng lương theo chế độ của Nhà nước thì trường hợp lương thực trả vượt 20 tháng lương cơ sở sẽ được tính tối đa ở mức 20 tháng lương cơ sở; còn người lao động hưởng lương theo hợp đồng lao động nếu vượt 20 tháng lương tối thiểu vùng sẽ tính ở mức 20 tháng lương tối thiểu vùng. Ví dụ, từ 1/7/2024 khi mức lương tối thiểu vùng I là 4,96 triệu đồng, mức trần lương tính đóng BHTN lên tới 99,2 triệu đồng (20 × 4,96 triệu). Như vậy, Luật mới cụ thể hóa khái niệm tiền lương đóng BHTN tương tự Luật cũ, đồng thời đảm bảo giữ nguyên cơ chế trần như hiện hành.
Cơ sở dữ liệu lao động và quy định đăng ký
Một điểm mới hoàn toàn của Luật sửa đổi là hệ thống đăng ký lao động và cơ sở dữ liệu quốc gia về người lao động. Trước đây, Việt Nam chưa có một sổ đăng ký thống nhất cho người lao động, chỉ có đăng ký thất nghiệp khi hưởng trợ cấp. Từ 1/1/2026, Luật Việc làm mới yêu cầu người lao động phải đăng ký lao động và cập nhật thông tin cá nhân, trình độ, kỹ năng nghề, nhu cầu việc làm, cũng như tình trạng đóng bảo hiểm xã hội, bảo hiểm thất nghiệp… vào cơ sở dữ liệu chung. Thông tin này bao gồm dữ liệu cơ bản (họ tên, số định danh cá nhân, nơi ở, giới tính, v.v.), trình độ giáo dục, bằng cấp nghề, nhu cầu công việc, tình trạng bảo hiểm, và các đặc điểm khác của lao động.
Cơ sở dữ liệu lao động do Nhà nước quản lý tập trung, được tích hợp từ các hệ thống dữ liệu quốc gia và chuyên ngành khác. Người sử dụng lao động và người lao động có trách nhiệm đăng ký, cung cấp đầy đủ chính xác thông tin và kịp thời điều chỉnh khi có thay đổi. Người lao động được bảo vệ thông tin cá nhân và có quyền được khai thác chính dữ liệu của mình trong quá trình tìm kiếm việc làm, hỗ trợ đào tạo, tư vấn giới thiệu việc làm theo quy định. Như vậy, so với thực trạng trước đây, Luật mới tạo ra một quy trình đăng ký - cập nhật dữ liệu liên thông toàn quốc. Việc này giúp cơ quan quản lý có bức tranh tổng thể về thị trường lao động và tăng cường kênh kết nối hỗ trợ, thay vì chỉ dựa vào việc lao động đến trung tâm giới thiệu việc làm để đăng ký thất nghiệp như trước đây.
Các chế độ hỗ trợ BHTN
Luật Việc làm hiện hành quy định bốn chế độ BHTN: (i) Tư vấn, giới thiệu việc làm; (ii) Hỗ trợ học nghề; (iii) Trợ cấp thất nghiệp; (iv) Hỗ trợ người sử dụng lao động đào tạo nghề để giữ người lao động. Luật sửa đổi vẫn duy trì bốn chế độ này nhưng bổ sung mở rộng nhiều quyền lợi.
Thứ nhất, chế độ hỗ trợ đào tạo, nâng cao kỹ năng nghề (trước đây gọi là “học nghề”) được nâng cấp. Người lao động thất nghiệp không chỉ được hỗ trợ chi phí đào tạo nghề mà còn được hỗ trợ thêm khoản tiền ăn sinh hoạt trong thời gian học tập nâng cao trình độ, kỹ năng. Điều này nhằm giảm bớt khó khăn về kinh tế cho người học nghề, góp phần tăng tỷ lệ lao động qua đào tạo và nhanh chóng quay lại thị trường lao động. Ngoài ra, Luật mở rộng quyền lợi cho người sử dụng lao động: doanh nghiệp thuê người lao động thất nghiệp được hỗ trợ đào tạo nghề với điều kiện dễ dàng hơn (bỏ một số yêu cầu khó khăn về thay đổi cơ cấu hoặc thiếu kinh phí) để giảm thiểu rủi ro mất việc trong các giai đoạn khó khăn.
Thứ hai, về trợ cấp thất nghiệp, Luật mới quy định rõ: nếu người lao động chấm dứt việc làm để nghỉ hưu thì sẽ không được hưởng trợ cấp thất nghiệp nữa (quy định này trước đây cũng đã có tại các thông tư, nay được ghi rõ trong luật). Đồng thời, thời gian chờ đợi để được nhận trợ cấp đã rút ngắn từ 15 ngày làm việc xuống còn 10 ngày làm việc kể từ khi nộp đủ hồ sơ. Nhờ đó, người lao động sẽ nhận tiền trợ cấp sớm hơn (sớm hơn 5 ngày so với quy định hiện hành).
Thứ ba, chế độ tư vấn, giới thiệu việc làm vẫn được duy trì theo Luật cũ. Đây là dịch vụ thiết yếu giúp người lao động có công ăn việc làm mới, đặc biệt khi thị trường lao động có biến động. Luật sửa đổi khẳng định tiếp tục tổ chức dịch vụ việc làm công theo quy định chung, đồng thời liên thông với cơ sở dữ liệu lao động mới để nâng cao hiệu quả tư vấn.
Ngoài ra, nhằm phản ánh chính sách hỗ trợ linh hoạt, kịp thời trong khủng hoảng, Luật Việc làm sửa đổi cho phép Chính phủ căn cứ tình hình thực tế và kết dư Quỹ BHTN để giảm mức đóng, hỗ trợ bằng tiền hoặc trợ cấp khác trong những trường hợp khủng hoảng kinh tế, thiên tai, dịch bệnh… Chính phủ cũng có thể điều chỉnh mức hưởng trợ cấp thất nghiệp (tối đa 60% mức lương đóng) cho phù hợp khi cần thiết, tuy mức chuẩn Luật vừa thông qua hiện vẫn là 60% trung bình lương 6 tháng đóng gần nhất. Các kiến nghị tăng mức hưởng khi khủng hoảng (ví dụ lên 65-75%) vẫn đang được cân nhắc theo đà thực hiện chính sách chung.
Tóm lại, các chế độ hỗ trợ BHTN trong Luật Việc làm (sửa đổi) được mở rộng, thiết thực và mang tính chủ động hơn. Các quy định mới hướng tới việc giảm thiểu khó khăn cho người thất nghiệp (đào tạo nghề có trợ cấp, thời gian chờ ngắn hơn), khuyến khích doanh nghiệp đào tạo lại lao động, và sẵn sàng ứng phó khủng hoảng bằng nguồn lực của Quỹ. Đồng thời, chính sách vay vốn hỗ trợ xuất khẩu lao động thể hiện định hướng linh hoạt đa dạng hóa việc làm cho người lao động.
Đức Tùng