Ngày đăng:
29/10/2025 07:39
Những ngày tháng Chín lịch sử, tôi cùng bố mẹ đi xem “Mưa đỏ”. Bộ phim để lại trong tôi nhiều cảm xúc, giúp tôi hiểu hơn về thế hệ cha ông đã chiến đấu kiên cường để bảo vệ Tổ quốc. Nhưng hơn hết, bộ phim khiến tôi tò mò về người lính Cụ Hồ ngay trong gia đình mình – ông ngoại tôi, năm nay đã 89 tuổi. Tôi muốn viết tiếp câu chuyện tự hào ấy – một câu chuyện không cần tìm đâu xa, bởi nó hiện hữu ngay trong chính mái ấm thân thương của mình.
Cựu chiến binh Đặng Xuân Hồng cùng cháu gái Kiều An
thăm Bảo tàng Lịch sử quân sự Việt Nam.
Tôi không sống cùng ông, bà ngoại từ nhỏ, mỗi năm cũng chỉ về thăm ông, bà vài ba lần, nên những gì biết về ông ngoại trong những năm kháng chiến của ông là không nhiều. Nhưng có lẽ thế mà tôi lại càng muốn viết lại câu chuyện này, bởi với tôi, câu chuyện về ông không chỉ là ký ức gia đình, mà còn là một niềm tự hào lớn lao.
Ông là một cựu chiến binh, năm nay 89 tuổi, hiện đang sống tại Tuyên Quang. Tôi là một trong 20 đứa cháu (nội, ngoại, chắt..) góp phần làm thành “đội quân hùng hậu” dễ thương của ông ngoại mỗi lần quây quần bên ông. Trộm vía, ông ngoại tôi còn khỏe mạnh, đáng yêu lắm, giọng nói sang sảng, bàn tay gân guốc chai sạn của ông trồng rau, nuôi gà và cầm bút viết rất bay bổng, bước chân ông đi vẫn chắc nịch như một người lính. Ông tên là Đặng Xuân Hồng.
Vào những ngày Thu lịch sử, cả nước kỷ niệm 80 năm Cách mạng Tháng Tám thành công và Quốc khánh 2/9, tôi bước chân trên những con phố, thấy cả Hà Nội như khoác lên mình tấm áo đỏ vàng rực rỡ - những lá cờ tung bay trên từng con ngõ, từng mái nhà, không khí tưng bừng của ngày Tết độc lập lan tỏa khắp nơi. Nhân dịp này, bố mẹ đã đón ông ngoại lên Hà Nội chơi, để ông có thể hòa mình vào niềm kiêu hãnh của Thủ đô trong ngày trọng đại. Ông khệ nệ xách nào trứng nào rau lên cho con cháu. Đó là những cọng rau xanh, quả trứng sạch mà ông vẫn chăm bón, nuôi trồng trong vườn nhà. Ông - người cựu chiến binh hóm hỉnh của tôi - còn luôn xông xáo vào bếp nấu ăn cho con cháu, nở nụ cười hiền lành ông bảo “No bụng mới học tốt được, các tiến sĩ ạ!”. Những bữa cơm ông nấu luôn khiến tôi thích mê. Gia vị đậm đà mà ông gửi trọn vào món ăn là niềm vui và tấm lòng quý mến con cháu. Ông ngồi vung tay, giọng nói hồ hởi nói với bà con hàng xóm: “Niềm vui tuổi già của tôi là có một đàn con, đội cháu khỏe mạnh. Tôi mong là ngoài 90 tuổi tôi sẽ được chúc mừng 2 cháu ngoại Miu và Nghé đỗ vào đại học rồi học lên tiến sĩ”.
Cựu chiến binh Đặng
Xuân Hồng
Ông cười giòn tan như niềm vui chiến thắng của người lính năm xưa trên chiến trường chống Mỹ. Hóa ra mơ ước của ông chỉ là được thấy tôi (Miu) và em trai song sinh của tôi (Nghé) cùng nỗ lực đạt được thành tích trong học tập và trưởng thành. Mong ước của ông thật giản dị và dễ thương biết bao.
Cựu chiến binh Đặng Xuân Hồng và gia đình thăm Bảo
tàng Lịch sử quân sự Việt Nam.
“Vừa qua, cả nước kỷ niệm 50 năm ngày miền Nam hoàn toàn giải phóng, 80 năm Quốc khánh Nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam, Ông rất tự hào vì đất nước mình đã đi lên, cuộc sống ngày càng tươi đẹp, quân đội ngày càng lớn mạnh, nhân dân phát triển kinh tế, cuộc sống ấm no, đầy đủ, hạnh phúc muôn vàn. Đất nước giờ đã bình an, các cháu phải rèn luyện sức khỏe, học giỏi, là con ngoan, có hiếu với bố mẹ, phải luôn luôn tự hào về quê hương có ông bà, có bố mẹ, có bạn bè, luôn phải có phẩm giá của con người.”, ông nói với con cháu mình như vậy.
Khi nghe ông nói về niềm tự hào của mình với đất nước trong dịp lễ trang trọng và nhộn nhịp này, trong mắt tôi hiện lên hình bóng của ông khi ông còn là quân nhân. Tôi tự hỏi: Bóng dáng ông ngoại thời trẻ như thế nào? Ông - người đã trải qua thời chiến - sẽ cảm thấy như thế nào về ngày hôm nay nhỉ? Dưới góc nhìn của ông, những ngày “Viết tiếp câu chuyện tự hào” của dân tộc, ông nhớ lại những năm tháng hành quân như thế nào? ... Trong khoảnh khắc đó, điều tôi mong muốn nhất là được nghe ông kể chuyện, được nghe ông chia sẻ.
Vài ngày sau, tôi đã mạnh dạn gọi điện cho ông và đề nghị được viết về ông. Ông cười khà khà trong điện thoại và nói thật to: Được thôi, đồng chí gửi câu hỏi để tôi trả lời. Rồi ông cứ đặt cái điện thoại vào gần miệng để nói, rồi lại đưa lên tai để nghe thật rõ những câu tôi hỏi và ghi chép lại. Ông rất hào hứng với nhiệm vụ này.
Ông cặm cụi viết lại những trang viết bằng tay như gói gém bao nhiêu hoài niệm về Tuổi trẻ của mình và gửi cho tôi hàng ngày khiến tôi rưng rưng cảm động.
Thanh xuân của ông là những chuỗi ngày Hành quân chiến đấu
“Với ông, được góp sức chiến đấu trong một nhiệm vụ quốc tế là rất vinh dự và tự hào.”
Ông ngoại Đặng Xuân Hồng của tôi sinh năm 1937 ở Tuyên Quang, ngày trẻ ông rất đẹp trai và giờ ông vẫn đẹp lão, khỏe mạnh và nhanh nhẹn lắm. Ông vào bộ đội và tuyến đường hành quân đầu đời của ông vào tháng 2 năm 1961.
Bước chân hành quân đầu tiên với bao nhiêu cảm xúc của thanh niên Xuân Hồng. Đúng như cảm xúc trong bài thơ “ Bài ca mùa xuân năm 1961” của nhà thơ Tố Hữu có đoạn:
“Nào đi tới! Bác Hồ ta nói
Phút giao thừa, tiếng hát đêm xuân
Kế hoạch năm năm. Mời những đoàn quân
Mời những bàn chân, tiến lên phía trước.
Tất cả dưới cờ, hát lên và bước! ...
Ông ngoại lúc đó là bộ đội pháo binh thuộc tiểu đoàn 10, sư đoàn 316, đóng quân ở Điện Biên Phủ (Tây Bắc), đơn vị Sơn Pháo 75 ly. Sơn pháo 75 ly là loại pháo có nòng ngắn, tầm bắn gần, gọn nhẹ và thường đặt cố định ở những vị trí phòng thủ hiểm yếu như núi cao. Ông kể là để sử dụng loại sơn pháo 75 ly khó lắm, phải học đâu nhớ đó và người lính bắn Sơn pháo ngoài sức trẻ, trí nhớ tốt, tay và mắt tinh nhanh còn phải có độ lì và liều để bắn phát nào trúng phát đó. Trung đoàn 675 là đơn vị đã dùng những khẩu pháo này bắn những viên đạn đầu tiên mở màn chiến dịch Biên giới Thu Đông vào ngày 16 tháng 9 năm 1950.
Không chỉ bảo vệ biên giới phía Tây Bắc, đơn vị của ông còn sang Thượng Lào giúp bạn đánh địch. Và “thanh niên” Xuân Hồng có mặt khắp ngả đường chiến đấu, ông đã có 2 năm chiến đấu tại cánh đồng Chum (Cao nguyên Xiengkhuang, Lào). Tôi đã tìm hiểu về Cánh đồng Chum và được biết nơi đây là nằm gần với dãy Trường Sơn của Việt Nam, cả trận địa này có đến hàng ngàn cái chum mà các nhà khảo cổ cho rằng liên quan tới nghi thức an táng của người xưa. Cánh đồng Chum là một trong những chiến trường khốc liệt nhất trên thế giới do Mỹ rải thảm bom nặng nề.
Ông kể rằng lúc đó ông trẻ lắm, đường ra trận sang Lào lúc nào cũng đẹp và ông đi chiến đấu lòng vời vợi niềm tin về sức mạnh của người lính Việt Nam trên mặt trận. Ông không bao giờ quên có những lần bom đạn xối xả trận địa, Cánh Đồng Chum chìm trong lửa khói. Đất đá bắn tung mù mịt, những thân cây bị chẻ nát, tan tác, bom xé toạc cánh đồng, các mỏm đồi lở, nhiều nắp hầm và chiến hào bị sập. Nhiều đồng đội của ông đã ngã xuống khi mới ngoài 20 tuổi ở trận địa này.
Đến tháng 8 năm 1965, ông lại gia nhập tiểu đoàn 119, trung đoàn 272 thuộc đơn vị Pháo cao xạ với nhiệm vụ bảo vệ miền Bắc. Những ngày tháng ấy, đơn vị của ông liên tục cơ động, khi thì đến Z2 - nơi sản xuất vũ khí đạn dược, lúc lại chuyển quân lên Cao Bằng, tiếp sang Hàm Yên (Tuyên Quang), Hạ Hòa (Phú Thọ), rồi đặt chân đến thành phố Việt Trì một thời gian. Mỗi lần di chuyển là một thử thách, một trận chiến sống - còn. Mỗi địa danh ông đi qua không đơn thuần chỉ là một dấu ấn trong chặng đường chiến đấu, mà còn là minh chứng cho sự bền bỉ và tinh thần sẵn sàng nhận nhiệm vụ của “ Người Lính pháo binh Xuân Hồng”, dù ở bất cứ nơi nào.
Đầu tháng 3 năm 1968 (chiến dịch Tết Mậu Thân), ông lại cùng đồng đội hành quân cấp tốc vào chiến trường, đi dọc con đường Hồ Chí Minh huyền thoại dưới sự chỉ huy của đoàn 559. Giữa những ngày mưa bom bão đạn, ông cùng đồng đội vẫn kiên cường bảo vệ cho những đoàn xe vận chuyển hàng hóa, vũ khí, lương thực chi viện cho miền Nam. Tôi hình dung ra ông lúc đó, khi ở quê ông khoác trên mình sự giản dị, phóng khoáng của một người thanh niên trẻ. Khi ra chiến trường ông rắn rỏi, kiên cường - một người lính pháo binh dũng cảm, không bao giờ lùi bước...
“1968 là giai đoạn chiến tranh cực kỳ khốc liệt, ông vẫn giữ khí phách của anh bộ đội Cụ Hồ. Nếu phải hy sinh, ông sẵn sàng chấp nhận.”.
Ngày 16 tháng 5 năm 1972, địch dùng pháo đài bay B52 rải thảm bom theo dọc tuyến, bom đạn trút xuống dữ dội ở mảnh đất miền Trung. Trong trận ấy, đơn vị của ông chịu nhiều tổn thất, hầm trú ẩn nơi ông đang ẩn náu cũng bị sập. Ông bị vùi lấp, cơ thể bị ép nghẹt giữa đất đá. May mắn thay, ông được đồng đội cứu ra và đưa đi cấp cứu kịp thời. Sự sống và cái chết lúc đấy chỉ cách nhau có một gang tấc. Ông mở mắt ra và thấy ánh sáng mặt trời, lúc đó ông mới biết mình còn sống. “Ông là Xuân Hồng, làm sao mà kẻ thù nào giết ông được”. Ông cười, mắt lấp lánh một ngọn lửa lạc quan, dũng cảm tuyệt vời. Một ngọn lửa mà ngay trước cửa tử vẫn cháy sáng, cháy vì nước, vì dân, vì chính gia đình của mình. Sau khi bình phục, nhiều vết thương nham nhở trên cơ thể ông đã khỏi. Người Lính pháo binh Xuân Hồng lại về đơn vị, cầm súng tiếp tục chiến đấu, ông lúc này là lính thuộc tiểu đoàn 595 trung đoàn 472 của đoàn 559.
Tháng 4 năm 1975, đơn vị của ông được lệnh hành quân vào chiến trường B để chi viện cho lực lượng giải phóng miền Nam. Vào những ngày lịch sử này ông đã có những ngày hành quân như trong câu thơ nổi tiếng “Đường Trường Sơn yêu biết mấy, Khi miền Nam sáng trong lòng anh”. Nhưng khi đơn vị tiến quân đến Đà Nẵng, ông lại là một trong những chiến sĩ pháo binh đặc biệt nhận được lệnh ra Bắc làm nhiệm vụ mới.
Từ miền Bắc nhận tin chiến thắng 30/4/1975, miền Nam hoàn toàn giải phóng, Người lính pháo binh Xuân Hồng đã khóc vì sung sướng với niềm vui thống nhất đất nước, nhưng ông cũng buồn ngậm ngùi nhớ đến bao nhiêu đồng đội của mình đã ngã xuống để bảo vệ quê hương. Cho đến ngày Việt Nam hoàn toàn giải phóng, ông ngoại tôi không còn giữ liên lạc được với một người bạn hay đồng đội nào vì họ đã hy sinh trong chiến trường hoặc là thương bệnh binh sinh sống tại những địa phương khác, việc liên lạc khó khăn.
Sau 13 năm 8 tháng cống hiến trong quân đội, Ông ngoại được xuất ngũ về địa phương (Tuyên Quang) vào cuối năm 1975.
“Ông là một người lính tham gia kháng chiến chống Mỹ và đã hoàn thành nhiệm vụ được Đảng và quân đội giao. Đó là điều cao quý nhất đời ông.”
Ông ngoại tôi đã nhận được nhiều tấm huân huy chương danh giá. Tấm huân chương đầu tiên ông nhận được là Huân chương Kháng chiến hạng Nhì cùng nhiều huân, huy chương khác mà đến nay ông vẫn giữ gìn cẩn thận. Ông hóm hỉnh bảo: “Đất nước và ông trời tặng ông sự sống để trở về xây dựng quê hương. Đó là tấm huy chương quý giá nhất”.
Chiến sĩ Pháo binh Xuân Hồng trở về xây dựng quê hương. Ông là tấm gương của sự nỗ lực rèn luyện, học tập suốt đời.
Để viết lại được những câu chuyện mà ông đã dành trọn thanh xuân của mình nơi chiến trường, bản thân tôi còn phải đọc sách và dành thời gian trò chuyện với ông thật nhiều. Ông nói giờ cứ lúc nào nhớ là ông sẽ viết lại và gửi cho cháu đọc. Ông vui lắm khi câu chuyện của ông được cháu lắng nghe và yêu thích.
Sau chiến tranh ông trở về địa phương công tác. Ông chăm chỉ làm việc và xây dựng quê hương. Đầu tiên, ông làm tham gia công tác ở hợp tác xã nông nghiệp với vai trò phó chủ nhiệm. Sau đó, ông tiếp tục đảm nhiệm nhiều vị trí như phó công an xã, thanh tra tư pháp xã. Khi tuổi cao, ông tham gia Hội người cao tuổi xã, giữ chức phó chủ nhiệm thường trực, tiếp tục đóng góp cho cộng đồng. Bây giờ 89 tuổi thì ông vẫn là “Chủ tịch Hội đồng quản trị” của họ Đặng nhà mẹ tôi và là rường cột của con, của cháu và các chắt nữa. Ông hiện tại quản lý một vườn rau và vài đàn gà để vừa luyện tập sức khỏe và tặng cho con cháu rau sạch, trứng thơm mỗi lần các con, các cháu về nhà thăm ông bà.
Ông ngoại tôi có kể rằng: Ông kết hôn với bà năm 1963. Khi ấy, ông đang tập huấn ở Hải Phòng, còn bà cũng tham gia tập huấn nông nghiệp tại đó. Hai người gặp gỡ, rồi nên duyên vợ chồng. “Lúc bấy giờ rất khó khăn về kinh tế, thiếu thốn lắm, thỉnh thoảng ông về được ít ngày rồi lại đi chiến đấu nhưng bà đã là hậu phương vững chắc chăm lo gia đình con cái cho ông yên tâm ra trận!”, ông nói: “Đất nước có chiến tranh, sau khi hòa bình mọi người làm nông nghiệp để có lương thực và diệt giặc đói. Ông bà tập trung cao độ làm việc chăm chỉ, ông, bà vừa công tác, vừa tăng gia sản xuất để có lương thực, đồng thời nuôi dạy các con ăn học.
Ông tôi thật tài giỏi, ông đã nuôi dạy được 5 người con trưởng thành (1 trai, 4 gái). 2 bác gái của tôi là bác sĩ, giáo viên có tiếng, bác trai làm kinh tế hộ gia đình rất giỏi, mẹ tôi (sinh năm 1976) là nhà báo công tác tại Tạp chí Cộng Sản, Dì tôi (1978) là dược sĩ. Ông bảo: nhà đủ hết cả công, nông, binh...Còn ông là Pháo binh về hưu chuyên trồng rau nuôi gà và chờ giấy khen của con cháu gửi về báo cáo để ông thưởng.
Về công tác hậu cần, ông tôi đúng là số 1. Ông luôn nghĩ làm thế nào để cho con cháu ăn ngon, và hợp khẩu vị. Tôi thích những món ăn ông nấu lắm. Mỗi lần về quê thăm ông bà, ông đều nấu những món khoái khẩu cho tôi ăn. Tôi rất thích món sườn chua ngọt với nước sốt cực kỳ vừa miệng, món canh xương ngọt thanh.. và đặc biệt là món thịt gà rang mắm trứ danh mà ông đã cẩn thận lọc hết xương, với hương vị đặc biệt, ngon hơn bất kỳ nhà hàng đắt tiền nào mà tôi từng được ăn.
Khi ông còn trẻ là thanh niên, ông thích nhất có nhiều bạn bè, cùng công tác theo hướng dẫn của các đoàn thanh niên. Đến nay, khi đã già, ông vẫn còn nhớ rõ những ngày tháng nhiệt huyết ấy. Lúc rảnh rỗi, ông thường thu xếp nhà cửa cho gọn gàng. Có những lúc ông nghĩ ngợi, nhớ về đồng đội năm xưa - những người nay đã không còn ai để gần gũi tâm sự, hàn huyên về những ngày tháng ở chiến trường gian khổ.
Mới đây, cả nhà tôi đã cùng ông lần đầu tiên đến thăm Bảo tàng lịch sử quân sự Việt Nam tại Hà Nội. Hai ông cháu chờ đợi, háo hức và thấp thỏm được đi cùng nhau đến nơi này. Nắng tháng 9 vàng ruộm con đường và mồ hôi thấm ướt cả bộ quân phục của ông nhưng ông vẫn khỏe khoắn đi bộ, tươi cười trò chuyện cùng tôi về những ụ pháo cao xạ, các phương tiện chiến tranh của Pháp Mỹ, ông thuộc lòng từng thứ đạn dược, vật dụng... Cả nhà tôi cùng ngồi xem phim tư liệu, ngắm nhìn những hình ảnh lịch sử, cùng xúc động, cùng vui với niềm vui của ông, ông bảo: Hôm nay, ông như thấy cả tuổi thanh xuân ùa về ...
Bảo tàng rộng lớn, mênh mông, như gom hết hồn cốt lịch sử dân tộc Việt Nam vào từng hiện vật, từng trang ký ức. Ở nơi đó, tôi như thấy cả bóng dáng và hoài niệm ký ức của bao người như ông ngoại. Điều khiến tôi trân quý nhất là sau chuyến thăm Bảo tàng lịch sử Quân sự, ông đã ngồi viết lại cảm xúc của mình và gửi cho tôi. Bàn tay gân guốc, chai sạn năm xưa cầm súng, giờ vẫn chắc nịch và bay bổng trên trang giấy. Từng chữ tuôn ra, dồn dập mà nồng nàn như những lời tự hào ân tình ông dành tặng cho cháu gái bé nhỏ vậy.
Nếu không có dịp được nghe những lời chia sẻ của ông về những năm tháng ông đi kháng chiến, có lẽ tôi sẽ không bao giờ có thể thực sự hiểu được chiến tranh khốc liệt, đau thương, khủng khiếp đến nhường nào. Tôi vô cùng tự hào vì có “ông ngoại - chiến sĩ”, may mắn vì cho đến ngày hôm nay, tôi vẫn có cơ hội được gọi “ông ơi…”./.
Nguyễn Kiều An - Học sinh lớp 11H, Trường THPT Chuyên Ngoại ngữ





